Thứ Bảy, 24 tháng 7, 2010

New York trong mắt tôi

New York - Thành phố của những tòa nhà chọc trời

Thành phố New York là thành phố nằm ở phía đông nam tiểu bang New York, đồng thời là thành phố lớn nhất Hoa Kỳ. New York là một trung tâm kinh tế, tài chính, văn hóa lớn của thế giới. Đây còn là nơi đặt trụ sở của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Thành phố New York có 5 quận: The Bronx, Brooklyn, Manhattan, Queens và Staten Island. Với 8,2 triệu dân sống trên một khu vực 830 km², New York là thành phố đông dân nhất khu vực Bắc Mỹ. Vùng đô thị New York với dân số xấp xỉ 22 triệu người là vùng đô thị lớn nhất thế giới.
New York nổi tiếng nhất với tượng Nữ Thần Tự Do (Statue of Liberty), các tòa cao ốc như Chrysler, Empire State, Toà Tháp Đôi (World Trade Center, đã bị sụp đổ ngày 11 tháng 9 năm 2001) và Thư viện công cộng New York, Quảng trường Thời đại (Times Square), Công viên Trung tâm (Central Park), Phố Wall (Wall Street),... Thành phố còn đang xây dựng tòa Tháp Tự do (Freedom Tower), ngay trên nền đất của Toà Tháp Đôi, vào năm 2007, sẽ hoàn tất vào năm 2009 và đưa vào hoạt động trong năm 2010. Đây sẽ là tòa nhà cao nhất thế giới với 541 m tính từ chân đến đỉnh ăng-ten.
New York thật ra có ba khu vực nhà cao chọc trời tách biệt nhau: Midtown Manhattan, Downtown Manhattan (cũng được biết như là Lower Manhattan) và Downtown Brooklyn. Khu vực lớn nhất của các tòa nhà cao chọc trời này là ở Midtown Manhattan, trung tâm kinh doanh lớn nhất trên thế giới, và cũng là nơi của các tòa nhà đáng để ý như tòa nhà Empire State, tòa nhà Chrysler và trung tâm Rockerfeller. Khu nhà chọc trời tại Downtown Manhattan bao gồm khu thương mại trung tâm lớn thứ ba trên nước Mỹ (sau Midtown Manhattan và Chicago's Loop), và đã từng được biết đến với sự hiện diện của tòa tháp đôi của World Trade Center.
Thành phố được hợp tụ bởi ba cù lao nơi cửa sông. Một cù lao nhỏ làm thành quận Manhattan sầm uất và sôi động bậc nhất thế giới. Ngày cũng như đêm, các con phố của Manhattan luôn luôn náo nhiệt, ồn ào. Quảng trường Thời Đại tập trung rất nhiều các cửa hàng cửa hiệu với biển quảng cáo, áp phích khổng lồ.







Empire State Building là biểu tượng của sức mạnh tài chính và là trái tim của cả thành phố New York. Tòa nhà được thiết kế theo phong cách Art Deco, một hình thái kiến trúc khá phổ biến những năm 20 và 30 của thế kỷ trước. Empire State Building được mô phỏng từ hình dáng một chiếc bút chì, mang phong cách khá hiện đại, cao 381 m với 102 tầng, xây dựng trong một thời gian ngắn kỷ lục, chỉ 16 tháng. Tên của tòa tháp được đặt theo biệt danh (nickname) của thành phố New York (Empire State). Nó được coi là tòa tháp cao nhất thế giới trong suốt 40 năm, kể từ khi hoàn thành năm 1931, vượt qua kỷ lục của Chrysler Building. Chỉ cho tới khi Trung tâm thương mại thế giới (WTC) hoàn thành năm 1972, Empire State Building mới chịu đứng ở vị trí thứ hai. Thế nhưng, sau khi WTC bị đánh sập năm 2001, nó lại giữ vị trí quán quân ở New York và á quân tại Mỹ, sau Sears Tower ở Chicago. Empire State Building do KTS Gregory Johnson thiết kế và Công ty Kiến trúc của ông, Shreve, Lamb and Harmon, thực hiện bản vẽ trong vòng chỉ 2 tuần. Thiết kế này lấy cảm hứng từ tòa nhà Carew Tower tại Cincinnati (bang Ohio). Tòa nhà chính thức khởi công bằng giai đoạn giải phóng mặt bằng tháng 1/1930 và việc xây dựng bắt đầu vào ngày 17/3, với sự tham gia của 3.400 công nhân, hầu hết đều là người nhập cư từ châu Âu.
Ngay từ khi thiết kế, Empire State Building đã âm thầm nhảy vào cuộc chạy đua cho danh hiệu tòa nhà cao nhất thế giới tại New York. Hai dự án khác là 40 Wall Street và Chrysler Building cũng đang trong giai đoạn xây dựng khi Empire State Building động thổ. Thế nhưng cả hai công trình này chỉ giữ được kỷ lục trong thời gian chưa đầy 1 năm, trước khi Empire State Building hoàn thành ngày 1/5/1931. Tổng thống Mỹ khi đó, Herbert Hoover, đã có hình thức "cắt băng" khá ấn tượng. Ông đã ngồi ở Washington, D.C. và ấn nút bật đèn sáng cho tòa nhà tại New York này. Tính cả phần anten, tòa nhà cao tới 443 m. 85 tầng được dành cho các trung tâm thương mại và văn phòng cho thuê, với diện tích hơn 200.000 m2. Một đài quan sát trong nhà và ngoài trời ở tầng thứ 86. 16 tầng còn lại là phần chóp nón nơi có hệ thống chiếu sáng hoành tráng. Empire State Building là tòa nhà đầu tiên có hơn 100 tầng. Nơi đây có tổng cộng 6.500 cửa sổ, 73 thang máy, cao 1.860 bậc tính từ mặt phố lên tới tầng 102. Diện tích khu đất là hơn 254.000 m2.
Từ năm 1964, hệ thống đèn chiếu sáng tán rộng đã được lắp đặt trên đỉnh tòa nhà và chiếu sáng vào ban đêm, với màu sắc thay đổi liên tục phù hợp theo mùa và các sự kiện, chẳng hạn như Noel. Sau ngày sinh nhật lần thứ 18 và cái chết sau đó của Frank Sinatra, tòa tháp được thắp ánh sáng màu xanh da trời, như nickname của ca sĩ này "Ol' Blue Eyes". Còn cuối năm 2004, khi nữ diễn viên Fay Wray qua đời, tòa bộ tòa nhà tắt điện hoàn toàn trong 15 phút để tưởng niệm. Năm 2001, khi WTC bị đánh sập, ba màu xanh, đỏ và trắng, đại diện cho màu cờ nước Mỹ, đã được thắp lên.
Empire State Building sở hữu một trong những đài quan sát ngoài trời lý tưởng nhất thế giới, thu hút hơn 110 triệu người mỗi năm nằm trên tầng 86. Từ nơi đây, có thể bao quát khắp New York. Thực ra, tòa nhà còn một đài quan sát nữa trên tầng 102 được mở cửa cho công chúng. Nhưng nó đã phải đóng cửa năm 1999 và rồi lại mở vào tháng 11/2005. Dù vậy, nơi đây không hút khách như khu vực ở tầng 86.
Empire State Building đứng ở vị trí đầu tiên trong cuộc thăm dò ý kiến của người Mỹ về công trình kiến trúc đẹp nhất của đất nước này.



Viện bảo tàng Sáp Madame Tussauds New York.
Marie Grosholz (Madame Tussaud) người Pháp là một trong những tên tuổi lớn nhất tại Anh. Marie Grosholz thừa kế bộ sưu tập các hình mẫu sáp của hoạ sĩ Curtius. Bà cưới kỹ sư Francois Tussauds, nhưng bà đã bỏ ông để thực hiện việc mang bộ sưu tập của mình đến Anh quốc. Năm 1999, Madame Tussauds mở cửa tại Las Vegas, tại đây có rất nhiều những bức tượng ngôi sao Mỹ và các huyền thoại Hollywood và tiếp theo năm 2000 là Madame Tussauds New York . Hiện nay, ngoài bảo tàng chính tại London, Bảo tàng Madame Tussauds còn có chi nhánh ở Washington D.C, New York, Las Vegas (Mỹ), Thượng Hải, Hồng Kông (Trung Quốc), Berlin (Đức), Amsterdam (Hà Lan).






New York không chỉ có những tòa cao chọc trời mà còn có những "cánh rừng" như lá phổi xanh của thành phố. Ở Manhattan có công viên trung tâm (Central Park), nơi người dân thành phố thư giãn và hít thở không khí trong lành, nơi để bọn trẻ trượt patin, đá bóng và chơi rất nhiều các trò chơi khác để quên đi cái ồn ào, náo nhiệt của thành phố. Công viên nhân tạo này  là một ốc đảo xanh mướt giữa lòng thành phố bêtông hóa với một rừng nhà chọc trời, là khoảng không gian xanh lớn nhất New York. Hầu như bất kỳ du khách nào đến với New York đều một lần đặt chân đến công viên nằm ở khu Manhattan hoa lệ này.Vào mùa hè, dàn nhạc giao hưởng của New York tổ chức những buổi trình diễn ngoài trời. Từ tháng 6 đến tháng 8 hằng năm, liên hoan Summerstage tổ chức tại đây đã thu hút nhiều nghệ sĩ lớn trên thế giới tham gia những buổi diễn ngoài trời...
Central Park là một công viên lớn nhất New York (và nước Mỹ), mỗi năm có khoảng 25 triệu khách đến thăm viếng. Đây là một công viên lâu đời, được mở cửa năm 1859, và được xây dựng thêm gần 15 năm mới hoàn tất, vào năm 1873. Kể từ năm 1963, công viên Trung Tâm (Central Park) được công nhận là một di tích lịch sử quốc gia (National Historic Landmark). Công viên dài khoảng 4 cây số, và rộng khoảng 0.8 cây số. Trong công viên có khoảng 9,000 băng đá, 36 cây cầu, 21 vườn chơi, và trồng khoảng 26,000 ngàn cây. Công viên có 3 hồ nước, hai hồ nhỏ để làm sân trượt băng vào mùa đông. Trong số 2 hồ này, một hồ được làm hồ bơi vào mùa hè. Hồ thứ ba rộng 43 hectare, chứa hàng tỷ lít nước. Công viên cũng có một rạp hát để trình diễn vào mùa hè, một vườn nhà kính (conservatory garden).
Central Park có diện tích
rộng hơn 340 ha, nhưng điều ấn tượng nhất chính là cái hình dáng chữ nhật của nó. Chiều dài cắt qua hơn 50 con phố và chiều rộng cắt qua 3 đại lộ. Một hình chữ nhật hoàn hảo tồn tại 150 năm cho thấy tính quyết liệt trong quy hoạch, và quan trọng hơn, nó thể hiện sự tôn trọng tuyệt đối của thành phố đối với ranh giới của công viên. Central Park chỉ bao gồm cây cối, vườn hoa, hồ nước, đường đi bộ, đường xe đạp, một số khu vui chơi công cộng và dịch vụ ăn uống. Trải qua 150 năm, có nhiều giai đoạn, Central Park cũng bị xuống cấp, hoa cỏ nhiều lần tàn lụi, nhưng chưa bao giờ người ta có kế hoạch xây dựng những công trình thương mại trong công viên. Công trình duy nhất được xây dựng trong công viên cũng là một công trình công cộng. Đó chính là Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại New York.





Tượng nữ thần Tự Do

Được đặt ở đảo Bedloe, tại cửa sông Hudson, nhìn ra cảng New York, tượng Nữ Thần Tự Do là tặng phẩm của nước Pháp dành cho nhân dân Mỹ, một kỷ vật để tượng trưng cho tình cảm của nước Pháp đối với cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ, cuộc Cách mạng mà nhiều người Pháp đã chiến đấu và đổ máu cho nền Độc Lập và Tự Do của Bắc Mỹ. Tượng do Auguste Bartholdi thiết kế, cao 46 m, được đặt trên bệ khổng lồ hình ngôi sao cao 47m do kiến trúc sư người Mỹ Richard Morris Hunt thiết kế, khiến chỏm ngọn đuốc cao hơn mặt đất tới 93 m. Tượng nặng 229 tấn, lưng rộng 10,6 m, miệng rộng 91 cm, tay phải giơ ngọn đuốc lửa dài 12,8 m, chỉ riêng một ngón tay trỏ cũng dài 2,4 m. Trên chân Tượng Nữ Thần Tự Do có xiềng sắt tượng trưng cho việc lật đổ chính quyền tàn bạo, tay trái nắm bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, trên đầu Tượng đội chiếc mũ có bảy đường tia sáng chiếu khắp bảy đại dương, bảy đại châu. Trong ruột Tượng Nữ Thần Tự Do có cầu thang xoáy trôn ốc, có thể leo lên được vùng đầu, tương đương với leo một ngôi nhà lầu cao 12 tầng. Phần sườn thép bên trong, chịu áp lực của bức tượng, đã được vẽ kiểu và thực hiện do kỹ sư Gustave Eiffel, cha đẻ của Tháp Eiffel, ngọn tháp được xây dựng vào năm 1889 và cũng đã trở thành một trong những biểu tượng của nước Pháp.














Đảo Ellis, nơi có góc nhìn tuyệt đẹp về Mahattan và đảo Liberty. Viện bảo tàng Di dân nằm trên đảo Ellis Island - nơi những người nhập cư từ châu Âu đặt bước chân đầu tiên đến Mỹ vào năm 1892 để thực hiện "giấc mơ Mỹ", và cũng từ đây New York trở thành một thành phố đa chủng tộc ngày nay. Viện bảo tàng bắt đầu mở cửa đón khách từ tháng 9-1990, sau khi việc trùng tu các tòa nhà đón dân nhập cư trước đây hoàn tất





Cầu Wiliamsburg






Cầu Brooklyn tại thành phố New York dài hơn 480m bắt qua sông Đông nối liền khu Brooklyn và Manhattan. John A. Roebling là kỹ sư trưởng của dự án vào năm 1867. Buồn thay, ông gặp tai nạn khi viếng thăm khu vực nơi cầu sắp được xây. Công việc xây dựng bắt đầu vào năm 1870. Đó là một công việc rất nguy hiểm. Có từ 20 tới 30 người thiệt mạng khi thực hiện dự án. Nhiều người chết vì rơi ra khỏi cầu hay bị tai nạn do các thiết bị. Những người khác chết hay bị thương vì làm việc trong các  thùng lặn khi gặp hiện tượng khí nén. Washington, con trai của John Roebling, bị chấn thương nghiêm trọng cũng vì hiện tượng này. Ông trở thành kỹ sư trưởng của dự án cầu Brooklyn ngay sau khi cha ông qua đời. Cầu Brooklyn được thông xe vào ngày 24/05/1883. Vào thời đó, nó là chiếc cầu treo dài nhất thế giới. Đó là một công trình có cấu trúc đẹp. Chiếc cầu có hàng chục ngàn dây cáp treo rộng nhiều mét và chạy từ trên xuống dưới các ngọn tháp dọc theo mỗi phía. Từ phía xa, những sợi cáp trông giống như những sợi dây của đàn hạc. Ở điểm trung tâm, chiếc cầu vươn cao lên khỏi sông Đông tới gần 40 mét. Nó là một trong những biểu tượng nổi tiếng và được yêu thích nhất của thành phố New York.
(Ảnh HV, bài viết sưu tầm tư liệu từ internet)



Cầu Brooklyn (photo Internet)

Thứ Tư, 7 tháng 7, 2010

Washington DC mùa hè

Washington, D.C. là thủ đô của Hoa Kỳ, được thành lập vào ngày 16 tháng 7 năm 1790. Mang tên chính thức District of Columbia (viết tắt D.C.), có nghĩa Đặc khu Columbia, thành phố này còn thường được gọi là Washington, the District, hoặc đơn giản hơn D.C. Trong tiếng Việt, District of Columbia cũng được dịch là Quận Columbia nhưng dễ nhầm lẫn vì có đến 8 quận tại Hoa Kỳ mang tên Columbia, đặt biệt nhất là quận Columbia, Washington, một quận nằm trong tiểu bang Washington. Về địa vị chính trị thì Washington, D.C. được xem là tương đương với các tiểu bang của Hoa Kỳ. Thành phố Washington ban đầu là một đô thị tự quản riêng biệt bên trong Lãnh thổ Columbia cho đến khi một đạo luật của Quốc hội Hoa Kỳ năm 1871 có hiệu lực kết hợp thành phố và lãnh thổ này thành một thực thể duy nhất được gọi là Đặc khu Columbia. Đó là lý do tại sao thành phố này trong khi có tên gọi chính thức là Đặc khu Columbia lại được biết với tên gọi là Washington, D.C., có nghĩa là thành phố Washington, Đặc khu Columbia. Thành phố nằm bên bờ bắc sông Potomac và có ranh giới với tiểu bang Virginia ở phía tây nam và tiểu bang Maryland ở các phía còn lại. Tuy đặc khu này có dân số 591.833 người nhưng do nhiều người di chuyển ra vào từ các vùng ngoại ô lân cận nên dân số thực tế lên đến trên 1 triệu người trong suốt tuần làm việc. Vùng đô thị Washington, bao gồm cả thành phố, có dân số 5,3 triệu người là vùng đô thị lớn thứ 8 tại Hoa Kỳ. Điều một trong Hiến pháp Hoa Kỳ có nói đến việc lập ra một đặc khu liên bang, không phụ thuộc vào bất cứ tiểu bang nào, để phục vụ như thủ đô vĩnh viễn của quốc gia. Các trung tâm của ba ngành trong chính phủ liên bang Hoa Kỳ cùng nhiều đài tưởng niệm và bảo tàng quốc gia đều nằm trong đặc khu. Washington, D.C. là nơi tiếp nhận 173 đại sứ quán ngoại quốc cũng như các tổng hành dinh của Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Tổ chức các quốc gia châu Mỹ (OAS), Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ, và Tổ chức Y tế Liên Mỹ (PAHO).
Thành phố Washington có một kiến trúc rất đa dạng. Sáu trong số mười tòa nhà xếp hạng đầu trong danh sách kiến trúc yêu thích nhất năm 2007 của Viện Kiến trúc sư Mỹ nằm trong Đặc khu Columbia, trong đó có: Tòa Bạch Ốc; Thánh đường Quốc gia Washington; Nhà tưởng niệm Thomas Jefferson; Tòa Quốc hội Hoa Kỳ; Nhà tưởng niệm Lincoln; và Đài tưởng niệm Cựu chiến binh tại Việt Nam. Các hình thái kiến trúc tân cổ điển, george, gothic, và hiện đại, tất cả được phản ánh trong sáu công trình kiến trúc đó và trong nhiều công trình kiến trúc nổi bật khác tại Washington. Những hình thái kiến trúc ngoại lệ nổi bật gồm có các tòa nhà được xây theo kiểu Đệ nhị đế chế Pháp như Tòa Cựu văn phòng Hành chánh (Old Executive Office Building) và Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ.
Trong trung tâm thành phố, khu công viên National Mall, có nghĩa Khu dạo chơi Quốc gia, mở rộng với Tượng đài Washington giữa. Cũng nằm trong khu vực này còn có Nhà tưởng niệm Lincoln, Đài tưởng niệm Quốc gia Đệ nhị Thế chiến nằm ở cuối phía đông Hồ phản chiếu Tưởng niệm Lincoln, Đài tưởng niệm Cựu chiến binh Chiến tranh Triều Tiên, Đài tưởng niệm Cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam, và Đài tưởng niệm Albert Einstein.
Nằm ngay phía nam khu dạo chơi National Mall là Tidal Basin, một vịnh nước nhỏ, một phần do nhân tạo, có trồng những hàng cây hoa anh đào do Nhật Bản tặng cho thành phố. Khu tưởng niệm Franklin Delano Roosevelt, Nhà tưởng niệm Jefferson, và Đài tưởng niệm Chiến tranh Đặc khu Columbia nằm gần Tidal Basin.





Nhà Trắng (White House) là nơi ở chính thức và là nơi làm việc chính của Tổng thống Hoa Kỳ. Nhà Trắng là một biệt thự sơn màu trắng và được xây bằng sa thạch theo kiểu tân cổ điển, số nhà 1600 Đại lộ Pennsylvania NW tại Washington, D.C..
Toà Bạch Ốc được xây dựng sau khi Quốc hội quyết định thành lập Đặc khu Columbia và chọn nơi này làm thủ đô Hoa Kỳ ngày 16 tháng 7 năm 1790. Tổng thống George Washington cùng với Pierre L'Enfant, người chịu trách nhiệm qui hoạch thành phố, giúp chọn địa điểm này.
Kiến trúc sư được chọn qua một cuộc thi với chín đề án gởi đến dự thi. James Hoban, người Ireland, là người thắng cuộc; toà nhà được khởi công xây dựng với lễ đặt viên đá đầu tiên vào ngày 13 tháng 10 năm 1792. Toà nhà theo thiết kế của Hoban mô phỏng tầng trệt và lầu một của toà nhà Leinster House, dinh thự của một công tước toạ lạc ở Dubin, Ireland, ngày nay là toà nhà Quốc hội Ireland.
Trái với những điều người ta thường biết về Toà Bạch Ốc, cổng Bắc của toà nhà không được thiết kế mô phỏng theo cổng của một dinh thự khác tại Dublin, Viceregal Lodge (nay là Aras an Uachtarain, nơi ở của Tổng thống Ireland). Trong thực tế, chiếc cổng này chỉ được xây dựng sau này. Quyết định đặt thủ đô trên nhượng địa của hai tiểu bang chủ trương sở hữu nô lệ - Virginia và Maryland - gây ảnh hưởng đến việc tuyển dụng nhân công xây dựng cho các toà nhà chính phủ. Các uỷ viên thành phố D.C., được Quốc hội giao nhiệm vụ kiến thiết thành phố mới dưới sự hướng dẫn của tổng thống, lúc đầu dự định sử dụng nhân công tuyển dụng từ Âu châu; nhưng vì những đáp ứng từ châu lục là tiêu cực nên họ phải quay trở lại tìm kiếm nhân công người Mỹ gốc Phi, cả nô lệ và người tự do. Những người này chiếm phần lớn lực lượng lao động xây dựng Toà Bạch Ốc.
Công cuộc kiến thiết Toà Bạch Ốc hoàn tất ngày 1 tháng 11 năm 1800. Tiến độ thi công cực kỳ chậm, phải mất 8 năm và tiêu tốn 232.371,83 USD, tương đương với 2,4 triệu USD theo trị giá ngày nay tính cả mức lạm phát.
Cổng trước và sau chỉ được thêm vào kiến trúc toà nhà cho đến năm 1825.
Toà nhà lúc đầu được gọi là Dinh Tổng thống (Presidential Palace hoặc Presidential Mansion). Dolley Madison gọi nó là "Lâu đài Tổng thống". Tuy vậy, có chứng cớ cho thấy trong năm 1811, toà nhà này lần đầu tiên được gọi là "Nhà Trắng", vì mặt ngoài của nó được sơn trắng. Tên gọi Dinh Hành pháp cũng thường được dùng đến trong các văn kiện chính thức cho đến khi Tổng thống Roosevelt thiết lập tên chính thức của nó là "Toà Bạch Ốc", tên này được khắc lên các vật dụng văn phòng của tổng thống năm 1901.
Ngày 19 tháng 12 năm 1960, Toà Bạch Ốc được công nhận Danh thắng Lịch sử Quốc gia.
Chỉ có ít người có thể nhận ra Toà Bạch Ốc rộng đến mức nào, bởi vì phần lớn cấu trúc của nó ẩn dưới mặt đất và vì nó trông nhỏ bé hơn kích thước thật khi so sánh với khung cảnh chung quanh. Bên trong Nhà Trắng có:
  • 6 tầng với diện tích sàn tổng cộng là 5.100 m² (55.000 ft²)
  • 132 phòng và 35 phòng tắm
  • 412 cửa ra vào
  • 147 cửa sổ
  • 28 lò sưởi
  • 8 cầu thang
  • 3 thang máy
  • 5 đầu bếp làm việc trọn thời gian
  • 5.000 khách viếng thăm mỗi ngày
  • 1 sân quần vợt
  • 1 đường băng bowling
  • 1 rạp chiếu phim
  • 1 đường chạy
  • 1 hồ bơi








 Tượng đài Washington (Washington Monument) là một đài kỷ niệm lớn màu trắng tại phía cạnh phía Tây của khu National Mall ở thủ đô Washington, D.C. của Hoa Kỳ. Đây là một đài tưởng niệm tổng thống được xây dựng để tượng niệm tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ George Washington. Tượng đài là cấu trúc công trình nề cao nhất trên thế giới, cao 169,29 m và được xây bằng cẩm thạch, granite và sa thạch. Người thiết kế tượng đài này là Robert Mills, một kiến trúc sư tài danh nổi bật của Hoa Kỳ cuối thập niên 1840. Việc xây dựng tượng đài thực tế được bắt đầu năm 1848 nhưng đến năm 1884 - gần 30 năm sau khi vị kiến trúc sư này mất vẫn chưa hoàn tất. Việc gián đoạn xây dựng này là do thiếu ngân quỹ và sự can thiệp của Nội chiến Mỹ. Một sự khác biệt về độ đánh bóng đá cẩm thạch, có thể thấy từ khoản 45 m trở lên đã phác họa việc xây dựng ban đầu từ khi bắt đầu xây lại năm 1876. Viên đá đặt nền móng được đặt ngày 6/12/1884 và tượng đài được xem như hoàn thành ngày 21/2/1885. Tượng đài được chính thức mở cửa cho công chúng ngày 9/10/1888. Vào thời điểm hoàn thành, tượng đài này là cấu trúc cao nhất, một danh hiệu nó được thừa hưởng từ Đại giáo đường Cologne và giữ kỷ lục đến năm 1889 khi Tháp Eiffel được hoàn tất ở Paris. Tượng đài Washington phản chiếu xuống Hồ phản chiếu hình chữ nhật vươn về phía Tây, phía Nhà tưởng niệm Lincoln.

 















Điện Capitol Hoa Kỳ hay Tòa Quốc hội Hoa Kỳ là trụ sở của Quốc hội, cơ quan lập pháp của chính phủ liên bang Hoa Kỳ được xây trên Đồi Capitol ở cuối phía đông của National Mall. Tuy không nằm tại trung tâm địa lý của Đặc khu Columbia, Điện Capitol là tiêu điểm của quy hoạch thành phố, cho nên các phần tư của địa hạt bắt đầu từ chỗ này.
Điện này nổi tiếng về mái vòm lớn đứng trên rotunda. Nó có một cánh cho mỗi viện Quốc hội: cánh phía bắc của Thượng Nghị viện và cánh phía nam của Hạ Nghị viện. Ở trong mỗi cánh này có phòng chính của viện, trên đó có phòng để người thường có thể coi những hành động của Thượng Nghị viện và Hạ Nghị viện.
Điện Capitol hiện hành là công trình thứ tư được sử dụng bởi Quốc hội, trước đó là Trụ sở Nghị viện Maryland tại Annapolis, Maryland (1783-1784), Liên Bang Phủ (Federal Hall) tại Thành phố New York (1789-1790), và Hội trường Độc lập (Independence Hall; lúc đó là Congress Hall, "Hội trường Quốc hội") tại Philadelphia, Pennsylvania (1790-1800).
Điện Capitol bắt đầu được xây dựng vào năm 1793. George Washington đặt xuống viên đá đầu tiên. Điện Capitol được xây dựng và được mở rộng sau đó vào thập niên 1850.



Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam, hay Bức tường Chiến tranh Việt Nam (tiếng Anh: Vietnam Veterans Memorial), là đài tưởng niệm có hình một bức tường dài, hình chữ V, bằng đá, khắc tên của hơn 58.000 chiến binh Mỹ đã thiệt mạng hoặc mất tích khi tham gia trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Bức tường nằm trong Khu tưởng niệm các Cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam tại trung tâm thủ đô Washington D.C. và được khánh thành ngày 13 tháng 9 năm 1982 với diện tích 8.100 m². Đây là nơi đón tiếp hơn 3 triệu người tới thăm viếng mỗi năm. Được chọn lựa từ hơn 1.000 bức mẫu, bức tường ngày nay do cô Maya Ying Lin, một nữ sinh viên kiến trúc người Mỹ gốc Hoa của Đại học Yale và sống tại Athens, Ohio, thiết kế mẫu.
Được làm từ hai tấm đá hoa cương đen mang về từ thành phố Bangalore ở Ấn Độ. Trên thế giới chỉ có ba nơi có nhiều loại đá hoa cương đen và lớn như vậy là Ấn Độ, Thụy Điển và Nam Phi. Chiều dài bức tường là 75 m, cao 3 m.
Bức tường không có ghi tên tuổi của một nhân viên dân sự nào, và cũng không phải quân nhân nào bị thiệt mạng cũng được khắc tên trên bức tường này. Chỉ khi nào một cá nhân bị thiệt mạng hoặc bị mất tích được Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ xem là do Chiến tranh Việt Nam, dựa theo các tiêu chuẩn đã được qui định, thì tên của cá nhân đó mới được khắc trên bức tường này. Với sự thêm tên mới đây nhất của 10 người nữa trong năm 2004, bức tường này có tất cả 58.245 tên của các quân nhân nam nữ, trong số đó có khoảng 1.200 người nằm trong danh sách quân nhân Mỹ mất tích trong Chiến tranh Việt Nam.






(Ảnh HV, bài viết sưu tầm tư liệu từ internet)

Thứ Bảy, 3 tháng 7, 2010

Niagara Falls, thiên đường trên mặt đất


\


























Thác Niagara là thác nước ở sông Niagara nằm ở đường biên giới của Hoa Kỳ và Canada. Cụm thác nước này có 3 thác. Thác Horseshoe Falls (Móng ngựa) hay còn còn gọi là Canadian Falls (thác nước Canada) vì nằm bên lãnh thổ Canada. Thác thứ hai là American Falls (thác Hoa Kỳ) và một thác nhỏ khác là Bridal Veil ( khăn voan cô dâu) vì thác này nhỏ và có hình tựa giống chiếc khăn voan của cô dâu ngày cưới vậy. Thác Bridal Veil rất nhỏ nằm ngay cạnh thác American Falls. Đảo Dê (Goat Island) ngăn cách thác Horseshoe Falls và cũng là đường biên giới giữa Mỹ và Canada. Với hơn 168.000 m³ nước rơi xuống mỗi phút vào thời điểm nhiều nhất, và trung bình gần 110.000 m³ mỗi phút, đây là thác nước mạnh nhất ở Bắc Mỹ. Thác Niagara tọa lạc khoảng 20 phút đi từ thành phố Buffalo của Hoa Kỳ và Toronto của Canada. Các thác Niagara nổi tiếng vì vẻ đẹp và nguồn giá trị cho thủy điện và một dự án gây thách thức cho bảo vệ môi trường. Là một địa điểm du lịch nổi tiếng một thế kỷ, kỳ quan thiên nhiên này nằm giữa hai thành phố kết nghĩa Niagara Falls, Ontario và Niagara Falls, New York.

Thác Horseshoe Falls cao khoảng 173 feet (53m). Chiều cao thác Mỹ thay đổi từ 70-100 feet (21m) do khối đá lớn nằm dưới chân thác. Thác Horseshoe Falls rộng khoảng 2600 feet (792 m), còn Thác Mỹ American Falls rộng 1.060 feet (323 m). Thể tích nước của thác vào mùa nước lớn có thể đạt tới 202.000 cubic feet mỗi giây (5.720 m³/s). Suốt mùa hè, mỗi giây khoảng 2.832 m³ nước chảy qua thác, trong đó tới 90% là qua thác Horseshoe Falls.
Đặt chân đến đây, du khách sẽ bị cuốn hút bởi khung cảnh hùng vĩ pha lẫn nét quyến rũ của nó kể cả ban ngày lẫn ban đêm. Thác nước tung bọt trắng xóa dưới ánh nắng tạo nên những sắc cầu vồng lúc ẩn, lúc hiện. Khi màn đêm buông xuống, hệ thống đèn cao áp với nhiều sắc màu chiếu vào làm khung cảnh của thác trở nên lung linh, huyền ảo. Những du khách có dịp đến đây bao giờ cũng trú ngụ lại một đêm để chiêm ngưỡng hết vẻ đẹp kỳ ảo đó. Phần lớn du khách chọn cách đi bộ tham quan quanh bờ thác hoặc đi thuyền vào lòng thác tận hưởng cảm giác mạnh nhưng cũng có nhiều du khách lại chọn lựa tham quan bằng tàu từ hướng cuối thác phía American Falls rồi chạy vòng đến thác Canadian Horseshoe Falls.

Niagara Falls nằm ở Ngũ Đại Hồ, năm hồ nước ngọt lớn nhất thế giới nối liền nhau. Thác nước Niagara Falls là một trong những thác nước lớn nhất thế giới, là một trong những kỳ quan thiên nhiên của thế giới. Trên thực tế, Niagara Falls không phải là một thác mà là nhiều thác. Thác Niagara cũng không phải là thác nước cao nhất thế giới, đứng thứ 10 về chiều dài nếu gộp cả 3 thác lại. Vậy điều gì đã làm cho thác nước này nổi tiếng thế giới. Điều gì đã thu hút hàng chục triệu khách du lịch đến đây thăm quan thác nước này mỗi năm, trong đó có nhiều nguyên thủ quốc gia cũng như người nổi tiếng như nữ hoàng Anh Elizabeth, công nương Diana, các đời thủ tướng Âu Mỹ, các đại văn hào, họa sỹ, nghệ sỹ cũng đến đây để tìm nguồn cảm hứng. Điều gì đã đem lại doanh thu nhiều tỉ đô la cho ngành du lịch nơi đây.

Niagara bắt nguồn từ ngôn ngữ của người da đỏ Neutral có nghĩa là "Sự gầm thét của nước", còn thông tin in trên tờ hướng dẫn du lịch bên Mỹ cho rằng Niagara trong tiếng của người da đỏ Iroquois có nghĩa là "eo biển". Tuy nhiên khi đến đây chứng kiến sức mạnh của nước, với tiếng thác đổ, mưa nước bắn xa cả cây số chẳng khác gì thần sấm đang nổi giận,  ý nghĩa Sự gầm thét của nước có lý hơn. Trong tài liệu ghi chép đầu tiên về thác Niagara Falls vào năm 1683 của nhà truyền giáo người Pháp, linh mục Louis Hennepin cũng viết rằng: "Người thổ dân Da Ðỏ vốn mê tín luôn tin rằng tiếng gầm thét của dòng thác Niagara, nhất là trong lúc mưa to gió lớn, cách xa 15 dặm còn nghe thấy, khác nào sự nổi giận của các thần dữ."

Niagara Falls cũng như vùng Ngũ Hồ được tạo ra do băng tan thời kỳ Băng Hà Cuối cách đây trên 12000 năm, các nhà khoa học cho rằng lúc đó cả khu vực này được bao phủ bởi một tầng băng dày khoảng 2-3km. Ngay cả cho đến ngày nay cũng chỉ có trên dưới 1% nước ở khu vực này là nước tái tạo, còn lại vẫn là nước nguyên bản từ thời kỳ băng hà, thậm chí có nhà khoa học còn cho rằng đây chính là nước hóa thạch, nghiên cứu nước ở đây chính là nghiên cứu nước của thời kỳ Băng Hà Cuối.

Niagara Falls nằm ngay đường biên giới Mỹ và Canada, thành phố hai bên bờ của mỗi quốc gia đều mang tên Niagara Falls. Một cái là Niagara Falls thuộc bang New York của Hoa Kỳ, một cái là Niagara Falls thuộc tỉnh Ontario của Canada. Lượng nước ở đây rất lớn 1/5 trữ lượng nước ngọt trên thế giới nằm ở Ngũ Đại Hồ. Tốc độ nước chảy ở đây rất mạnh khoảng 180000 m3/phút với tốc độ 65 km/h chính vì vậy bào mòn các tầng đá vôi với tốc độ khá cao. Ngày nay 1/3 thác Horseshoe Falls hay còn gọi là Thác của Canada do nước bào mòn mở rộng thác cho nên mở rộng thêm 1/3 thác sang phía Mỹ, những người Mỹ lạc quan cho rằng với tốc độ bào mòn tiếp tục có lẽ một ngày nào đó ½ thác Canada sẽ nằm sang bên kia đường biên giới thuộc địa phận Mỹ. Tuy nhiên để ngắm chính diện thác, có lẽ người Mỹ vẫn phải sang Canada để ngắm. Cũng do nước bào mòn mà còn tạo ra nhiều danh thắng khác ở khu vực này, những hẻm núi cao thẳng đứng hai bên bờ sông, những khe nứt, những dòng chảy xoáy dẫn nước biến mất giữa khe núi, v...v. Nước thậm chí bào mòn vách đá, ăn sâu vào đất liền, cộng với địa chấn, đá lở làm sập nhà máy thủy điện Schoellkopf vào năm 1956. Nếu đi ở bờ bên Mỹ về phía Đông khoảng chục cây số từ thác chính sẽ thấy vẫn còn dấu vết của nhà máy thủy điện bị đổ nát bên dưới bờ vực.

Ngày nay, dòng nước đã được điều phối làm chảy chậm lại, nhất là vào mùa băng tan để tránh hiện tượng xói mòn và để làm thủy điện. Hệ thống nhà máy thủy điện của Mỹ và Canada nằm hai bên bờ cũng rất hiện đại, với các hệ thống đường ống dẫn ngầm nằm sâu dưới lòng đất cùng với bể chứa nước dự phòng. Vào mùa du lịch cao điểm, hệ thống đập nước sẽ bảo đảm có ít nhất 3000 m3/giây đổ ra thác vào ban ngày để tạo cảnh quan hùng vĩ và tự động điều chỉnh hạ xuống chỉ còn 1500 m3/giây vào ban đêm. Đập nước sẽ điều phối nước vào hệ thống bể chứa dự trữ của các nhà máy thủy điện để các nhà máy thủy điện hút ra vào ban ngày, khi nước được điều phối cho thác. Từ tháng 11 đến tháng 4 các nhà máy thủy điện được sử dụng toàn bộ nguồn nước 24h trên 24h.

Ấy vậy nhưng cũng đã có những lúc thác không có chút nước nào, lòng sông khô cạn, người dân có thể đi bộ xuống dưới lòng sông tìm kiếm những đồ vật kì lạ hoặc rơi vãi từ nhiều năm. Vì nguồn nước ở đây là do băng tan, có lần do một tảng băng to nằm chắn ngang thượng nguồn làm tắc nghẽn dòng sông, cho nên nước không chảy về xuôi được. Vào năm 1969, chính phủ Hoa Kỳ còn cố tình làm cho thác American Falls và Bridal Veil ngừng chảy trong nhiều tháng bằng cách xây hẳn một cái đập chắn nước để nghiên cứu về sự xói mòn , nghiên cứu làm giảm tốc độ ăn mòn và cả dự án làm thẩm mỹ cho thác American Falls bằng cách di chuyến các tảng đá bên dưới thác để làm thác đẹp hơn. Dự án làm đẹp sau đó bị hủy bỏ vì chi phí quá lớn và không có tính khả thi. Sau vài tháng nghiên cứu, công binh Mỹ nổ mìn phá đập để nước chảy lại qua thác.

Điều thú vị của thác Niagara Falls là đẹp cả bốn mùa, mỗi mùa một vẻ. Mùa Xuân cây lá đâm chổi nảy lộc, băng tuyết vùng phía Bắc tan cũng là mùa nước. Mùa Hè, cầu vồng xuất hiện suốt ngày. Mùa Thu lá đổi màu dọc hai bên bờ tạo nên một bức tranh màu sắc tuyệt hảo. Mùa Đông, hơi nước do thác chảy bay lên bám vào các cành cây, vách đá, các công trình kiến trúc sau đó đóng băng lại, trông tựa như thành phố băng tuyết trong các câu chuyện cổ tích vậy. Nước thậm chí đóng băng cứng mặt sông có thể đi lại được, trượt băng trên mặt hồ. Trượt băng lại là trò thể thao ưa chuộng nhất ở Canada, cho nên đến mùa đông người ta thường ra các mặt hồ đóng băng để chơi trượt băng, khúc côn cầu, câu cá, v...v. Riêng ở Niagara Falls do một lần có đông người chơi trên mặt sông đóng băng quá, mặt băng sập và nhiều người chết cho nên từ đó chở đi không ai được phép chơi trên mặt sông đóng băng ở Niagara nữa. Vẻ đẹp của Niagara Falls thay đổi bốn mùa, mỗi mùa một vẻ. Ban ngày cầu vồng xuất hiện thường xuyên có lúc ba bốn cái cầu vồng xuất hiện cùng một lúc, đến đêm thác được chiếu đèn bảy màu, xanh đỏ tím vàng trông rất đẹp mắt.

Niagara Falls nổi tiếng với những trò mạo hiểm. Người Mỹ và Canada nổi tiếng thế giới về các trò mạo hiểm và thác Niagara Falls nằm ở Bắc Mỹ chắc chắn là nơi thử thách của những người ưa chơi trò mạo hiểm, những người liều mạng dám thách đố với tử thần (dare-devil). Quả nhiên, thác nước này chứng kiến rất nhiều người mạo hiểm vượt thác hoặc làm những trò kỳ cục mạo hiểm nơi đây.

Người mạo hiểm đầu tiên là Sam Patch, một người Mỹ đến từ Rhode Island. Ngày 7/10/1829, lúc mới 23 tuổi, Sam đã phi thân từ trên đảo Goat xuống dòng sông Niagara ở độ cao 30 m thành công. Không bằng lòng với chính mình, Sam thử nghiệm thêm nhiều lần nữa, tự phá kỷ lục của chính mình ở các độ cao hơn và cuối cùng mất mạng.

Jean Francois Gravelet (hay còn gọi là Blondin vĩ đại) là người đi dây thăng bằng vượt qua sông Niagara đầu tiên vào ngày 30/6/1859. Người đầu tiên dám chinh phục thác Horseshoe lại là một người phụ nữ, một bà giáo già 63 tuổi người Mỹ ở Michigan, bà Annie Taylor.  Vào ngày 24 tháng 10 năm 1901, cô giáo 63 tuổi ở bang Michigan tên là Annie Edson Taylor đã là người đầu tiên vượt thác trong một cái thùng; Bà này cũng sống sót, tuy bị xây xước một chút nhưng hầu như bình yên vô sự. Sau bà Taylor, 14 người khác cũng muốn vượt thác trong hoặc trên một phương tiện nào đó. Một vài người không hề hấn gì nhưng đa số bị thương nặng. Những người sống sót sau những trò phô trương này đều bị buộc tội và bị phạt bởi vì luật cấm nhảy thác đã được đưa ra ở cả 2 nước.

Niagara Falls quá nổi tiếng với những người ưa mạo hiểm và họ thích đến đây với hy vọng trở nên nổi tiếng, dẫn đến nhiều kết cục bi đát. Trong suốt gần hai thế kỷ, không biết bao nhiêu người đã mạo hiểm đến đây, thử sức với thiên nhiên, thách thức với tử thần hy vọng sẽ trở nên nổi tiếng, đem lại cho họ danh vọng và tiền tài, trong đó phần lớn là bỏ mạng. Để ngăn chặn việc này, chính phủ hai nước Mỹ- Canada đã ra luật cấm tự tiện thực hiện những trò mạo hiểm ở đây, nếu không sẽ bị phạt. Tuy nhiên đến thần chết còn không ngăn cản được họ chứ đừng nói luật pháp. Ở Niagra Falls có hẳn một viện bảo tàng của dân chơi trò mạo hiểm với những kỷ vật, hình ảnh của những con người thích đùa giỡn với tử thần.

Ngày 1/10/1995, Robert Overcracker, một anh chàng người California trang bị dù của phi công lái máy bay có thể tự bắn lên cao rồi bung dù, thực hiện một trò mạo hiểm hơn phi xe máy nước từ trên đỉnh thác xuống để quyên tiền cho những người vô gia cư. Cuối cùng do dù không mở, anh thiệt mạng và thay vì chiến dịch vận động cho người vô gia cư, sự kiện của anh trở thành quảng bá cho các hãng dù khuyên nên mua dù của họ với khẩu hiệu : có dù là chưa đủ mà bạn cần phải có một cái dù bảo đảm hoạt động tốt

Mới đây, ngày 20/10/2003, Kirk Jones người Michigan đang đi chơi cùng bạn bè đã nhảy qua hàng rào ngăn cách, bơi ra phía thác Horseshoe trôi theo dòng thác xuống dưới ở độ cao 60m với độc một cái quần xà lỏn rồi bơi vào bờ hoàn toàn bình an vô sự. Tuy nhiên anh được đưa vào thương xá gần đó để kiểm tra xem có làm sao không và sau đó bị phạt $2300 cũng như vĩnh viễn suốt đời không được đặt chân sang đất Canada. Vụ việc rùm beng thời đó và đưa tên tuổi Kirk như người đầu tiên dám vượt thác không cần dụng cụ cứu sinh.

Trong mùa hè này, từ tháng 6 cho đến tháng 9/2008, Jay Cochrane, một nghệ sỹ đi dây thăng bằng nổi tiếng thế giới người Canada với 6 kỷ lục thế giới với biệt danh Hoàng tử của không trung sẽ biểu diễn đi dây thăng bằng hàng ngày ở độ cao trên 200m từ sòng bài Niagara Fallsview Casino Resort đến khách sạn Hilton với khoảng cách 220m. Khách du lịch tham quan được chụp ảnh chung và ký tặng hình miễn phí.
Điều kỳ diệu ở Niagara "Miracle at Niagara" xảy ra ngày 9 tháng 7 năm 1960, một cậu bé 7 tuổi người Mỹ tên là Roger Woodward đã sống sót khi rơi từ trên đỉnh thác Horseshoe Fall xuống mà chỉ được bảo vệ bởi một chiếc áo phao. Cô chị gái của cậu, Deanne, được cứu khi chỉ còn cách miệng thác chừng 20 feet (6m) . Vài phút sau, Roger được cứu ở phía dưới chân thác bởi những người trên tàu Maid of the Mist (Tàu du lịch ở thác Niagara). Sự sống sót khó tin của cậu đã được đưa tin khắp thế giới.
Mỗi năm Niagara Falls đón tiếp 12 triệu khách du lịch, đem lại nguồn thu hàng tỉ đô la. Ngành công nghiệp không khói cực kỳ phát triển nơi đây. Các nhà đầu tư đổ tiền vào xây dựng các khu giải trí, vườn hoa, bách thú, khách sạn, nhà hàng, khu mua sắm, các sòng bài dọc hai bên bờ biên giới Mỹ-Canada. Hệ thống cơ sở hạ tầng tốt, các sân bay khu vực, cộng với hệ thống đường cao tốc cực tốt nối liền với các thành phố lớn đã thu hút khách du lịch đến nơi này. Chỉ cần một giờ đồng hồ lái xe, người ta có thể tránh được sự ồn ào, náo nhiệt, của chốn phồn hoa đô thị như Toronto để hòa mình vào thiên nhiên, đi tản bộ dọc bên bờ sông hoặc nằm phơi mình tắm nắng bên thảm cỏ nghe tiếng thác đổ. Cả gia đình có thể cùng thư giãn tại các khu nghỉ mát giải trí như Công viên nước Niagara (Niagara Marineland).

Đây cũng là một trong những nơi các đôi uyên ương mới cưới chọn để hưởng tuần trăng mật. Một trong những điều kỳ thú hẳn sẽ làm bạn ngạc nhiên, Niagara Falls được mệnh danh là thủ đô tuần trăng mật của thế giới chứ không phải là Hawaii, Paris (Pháp) hay Venice (Ý). Con các tổng thống Mỹ hay em trai của Hoàng đế Pháp nổi tiếng Napoleon cũng chọn nơi này để hưởng tuần trăng mật. Các tập đoàn khách sạn lớn như Hilton, Marriott, Sheraton đều đầu tư mạnh vào khu vực này, xây dựng không chỉ một khách sạn mà nhiều khách sạn và khu vui chơi giải trí.

Vì vậy mặc dù Niagara Falls không cao như thác Angel ở Venezuela hay rộng như thác Inga ở Congo nhưng do được đầu tư xây dựng cũng như quảng bá tiếp thị tốt, hệ thống cơ sở hạ tầng tuyệt hảo cũng như nằm ở Hoa Kỳ cho nên lượng khách du lịch đến đây rất lớn. Mọi tầng lớp đến đây đều có thể vui chơi nghỉ ngơi thư giãn được, từ đôi vợ chồng mới cưới đến hưởng tuần trăng mật, các cụ già nghỉ hưu đi tham quan thắng cảnh cho đến trẻ con được vui chơi tại các khu vui chơi của trẻ em với hàng trăm loại hình giải trí, cụm rạp hát có thể xem bất kỳ thể loại phim gì. Phụ nữ có thể đi mua sắm quần áo, thời trang, mỹ phẩm tại khu mua sắm rất lớn với đủ các loại nhãn hiệu tên tuổi. Các quý ông muốn thử vận đỏ đen có đến 3 sòng bài mở cửa 24/24 chờ phục vụ. Hệ thống khách sạn nhà hàng nhiều vô kể xiết với đủ các loại giá tiền từ bình dân vài chục đô một tối cho đến 5 sao, cao cấp phục vụ tuyệt vời.

Nếu bạn là người thích lái xe ô tô đi du lịch, bạn có thể thuê xe ô tô tự lái từ các sân bay của Mỹ và Canada rồi lái xe đi thăm quan đây đó. Phía Canada, từ Toronto, nếu bạn lái xe về phía Tây khoảng 1tiếng sẽ đến Niagara Falls, từ thủ đô Ottawa của Canada mất khoảng 6 tiếng. Phía Hoa Kỳ, khoảng cách từ New York, Boston đến Niagara Falls khoảng 8 tiếng lái xe, từ thủ đô Washington DC mất khoảng 12 tiếng. Khi đến đây nên ở lại ít nhất một ngày để ngắm thác Niagara Falls vào buổi tối. Buổi tối thác được chiếu sáng bởi một hệ thống đèn pha Xenon cực mạnh, công suất 250 triệu nến, với màu sắc lung linh huyền ảo tựa như cầu vồng xuất hiện về đêm vậy. Vào mùa du lịch, cuối tuần nào cũng bắn pháo hoa vào tối thứ Sáu, thứ Bảy, và Chủ Nhật.

Địa điểm ngắm thác nước đẹp nhất là bên bờ Canada vì vậy ngay cả người Mỹ cũng thường đi qua Canada để ngắm thác Mỹ chứ không đứng bên bờ Mỹ ngắm thác Mỹ. Các nhà đầu tư cũng vậy, đổ tiền đầu tư phía bên bờ Canada nhiều hơn bên Mỹ, nếu bạn có cơ hội thăm quan cả hai bên bờ sẽ thấy sự khác biệt rõ ràng. Khung cảnh bên Canada náo nhiệt, sôi động hơn hẳn, đường phố đầy ắp khách du lịch nhất là khu Clifton Hill, có đến hai sòng bài (casino) được mở ngay sát cạnh nhau bên bờ Canada mà lúc nào cũng đông khách.
Nếu bạn có thể đi xem được cả hai bên bờ Mỹ và Canada là tuyệt vời nhất. Bạn có thể đi bộ, hoặc lái xe qua cầu Cầu Vồng ( Rainbow Bridge), cửa khẩu biên giới nằm ở ngay hai đầu cầu. Nếu bạn chỉ đi được Mỹ, chỗ ngắm cảnh thác Horseshoe đẹp nhất là Terapin Point trên đảo Dê (Goat Island). Đây cũng là công viên tiểu bang lâu đời nhất nước Mỹ, từ đảo Dê men theo dòng chảy đi sát bờ về phía Tây Bắc, bạn có thể đến sát thác Bridal Veil để ngắm cho thỏa thích.

Nếu muốn vượt biên một cách hợp pháp, bạn nên mua tour du lịch ngắm cảnh bằng trực thăng để có thể bay lượn trên bầu trời ngắm toàn cảnh thác nước Niagara Falls, trực thăng sẽ bay sang cả hai không phận Mỹ và Canada cho bạn tha hồ chụp ảnh và tất nhiên sau đó bay về lại bên bờ bạn đến. Giá dịch vụ hoàn toàn không đắt, khoảng $45/người cho tour 15 phút, nếu bạn muốn thuê riêng máy bay cho cả gia đình hoặc đưa người yêu lên ngắm cảnh hoàng hôn trên thác sau bữa tối lãng mạn cũng chỉ mất $150-$200 tùy theo loại trực thăng 2 chỗ hay 6 chỗ. Một trong những cách khác là đi kinh khí cầu, kinh khí cầu không bay lượn như trực thăng nhưng cho bạn một cảm giác khác cũng rất thú vị, cho bạn cảm giác bay bổng trên không trung, cảm giác không an toàn vì sử dụng những thiết bị cổ xưa từ thủa sơ khai của ngành hàng không thế giới, giữa bạn và mặt đất chỉ là một cái sọt đan bằng mây, được kéo lên bởi một quả bóng bay.

Nếu bạn muốn thử chút cảm giác mạnh tựa kiểu mấy người chơi trò mạo hiểm phía trên nhưng vẫn an toàn, có thể mua vé chơi các trò như Skywheel đưa bạn lên độ cao 53m, xe goòng xoáy tốc độ cao ( roller-coaster), tháp trượt, ghế tử thần (bạn ngồi vào ghế được thắt dây an toàn, sau đó được đưa lên cao vài chục mét rồi cho rơi tự do xuống).

Nếu bạn muốn khám phá nhiều nơi, vào nhiều chỗ bạn nên mua thẻ tham quan (attractions pass) sẽ rẻ hơn mua vé lẻ tại từng địa điểm.

Bạn nên thăm quan các tòa tháp và ngắm toàn cảnh thác từ đó như Skylon Tower, Minolta Tower. Trên đỉnh các tháp này có các khán đài, nhà hàng quay 360 độ, bạn có thể ăn bữa tối trong khung cảnh lãng mạn với toàn cảnh khu vực thác.

Đi ngắm thác trên con tàu du lịch hai tầng lịch sử mang tên "Nàng trinh nữ của xứ sở sương mù" (Maid of the Mist) đi vòng quanh cả mấy thác cũng cho bạn một cảm giác thú vị. Nước bắn xối xả, tung tóe, mọi thứ ướt sũng tựa như gặp cơn mưa bão lớn vậy. Nước gầm thét trước mặt bạn, cho bạn cảm giác thiên nhiên thật hùng vĩ.

Để ngắm trong thác hay vào sát thác, bạn mua tour Hành trình bên dưới và sau thác (Journey below and behind the falls) tại Table Rock House. Thang máy sẽ đưa bạn xuống độ sâu khoảng 50m, sau đó đi theo đường hầm ra các khán đài để ngắm thác. Dù mùa Đông hay mùa Hè đều lạ cả, mùa Hè bạn cần phải mặc áo mưa đứng xem thác đổ nghe như sấm rền. Mùa đông nước bị đóng băng, tạo những bức tường băng cỗ trong suốt ánh nắng chiếu qua, chỗ mờ mờ đục đục trông hư ảo chẳng khác chốn thần tiên.
(Ảnh HV, bài viết sưu tầm tư liệu từ internet)